Scholar Hub/Chủ đề/#hội chứng ngừng thở khi ngủ/
Hội chứng ngừng thở khi ngủ (còn được gọi là hội chứng ngừng thở giấc ngủ, hội chứng apnea giấc ngủ) là một tình trạng mà người bị nạn nhân bị ngừng thở tạm thờ...
Hội chứng ngừng thở khi ngủ (còn được gọi là hội chứng ngừng thở giấc ngủ, hội chứng apnea giấc ngủ) là một tình trạng mà người bị nạn nhân bị ngừng thở tạm thời trong khi đang ngủ. Đây là một vấn đề y tế nghiêm trọng và có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe khác.
Có hai loại hội chứng ngừng thở khi ngủ:
1. Hội chứng ngừng thở khi ngủ một phần (obstructive sleep apnea): Đây là tình trạng phổ biến nhất và thường xảy ra khi cơ họng bị tụt vào suốt quá trình ngủ, làm cản trở lưu thông không khí. Điều này có thể gây ra sự gián đoạn trong quá trình hô hấp và dẫn đến việc ngừng thở tạm thời.
2. Hội chứng ngừng thở khi ngủ trung tâm (central sleep apnea): Đây là dạng hiếm gặp, do sự mất cân bằng trong hệ thống điều khiển hô hấp của não. Trong trường hợp này, não không phát ra tín hiệu để cơ họng hoạt động một cách đồng bộ, dẫn đến việc ngừng thở.
Người mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ thường có những triệu chứng như việc thức giấc liên tục trong ban đêm, mệt mỏi và buồn ngủ trong ngày, chóng mặt, rối loạn giấc ngủ và giảm hiệu suất làm việc. Nếu không được điều trị, hội chứng này có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim, mất ngủ và nguy cơ cao cho các bệnh tim mạch và tai biến mạch máu não.
Việc điều trị hội chứng ngừng thở khi ngủ thường bao gồm thay đổi lối sống (giảm cân, ngừng hút thuốc, tránh uống rượu trước khi đi ngủ), sử dụng máy thở (dụng cụ Continuous Positive Airway Pressure - CPAP) hoặc các phương pháp phục hồi cơ họng.
Hội chứng ngừng thở khi ngủ là một tình trạng mà người bị nạn nhân bị ngừng thở tạm thời trong khi đang ngủ. Thông thường, khi người ta ngủ, cơ họng tự động co lại và lõm vào một chút để ngăn không khí thoát ra. Tuy nhiên, ở những người bị hội chứng ngừng thở khi ngủ, cơ họng có thể tụt xuống quá mức và gây cản trở lưu thông không khí. Điều này dẫn đến việc cung cấp ít oxi vào máu, gây ra sự gián đoạn trong quá trình hô hấp và ngừng thở tạm thời.
Các nguyên nhân gây ra hội chứng ngừng thở khi ngủ bao gồm:
1. Xuất phát từ cơ họng: Cấu trúc cơ họng không ổn định hoặc cơ họng quá nhỏ.
2. Tăng cân: Tích mỡ và mô xơ trong cơ họng có thể gây áp lực lên lỗ thoáng của cơ họng, làm giảm lưu thông không khí.
3. Suy giảm chức năng cơ họng: Các bệnh như bệnh Parkinson, bẹnh tuổi già, hoặc bệnh liên quan đến hệ thần kinh có thể làm giảm khả năng kiểm soát hoạt động của cơ họng.
4. Dấu hiệu đường hô hấp không ổn định: Sự mất cân bằng trong việc điều khiển giữa việc hít và thở trong quá trình ngủ.
Một số triệu chứng thường gặp của hội chứng ngừng thở khi ngủ bao gồm:
1. Ngừng thở tạm thời: Có thể là trong vài giây đến vài phút.
2. Tiếng ngáp: Do việc giảm lưu thông không khí qua cơ họng.
3. Thức giấc liên tục trong ban đêm: Do việc ngừng thở tạm thời gây ra.
4. Mệt mỏi và buồn ngủ trong ngày: Do việc không có giấc ngủ tốt trong đêm.
5. Chóng mặt và rối loạn giấc ngủ: Do ít oxi và tác động của việc thức giấc liên tục.
6. Giảm hiệu suất làm việc: Do việc mất ngủ và khó tập trung.
Để chẩn đoán hội chứng ngừng thở khi ngủ, người bệnh thường cần tham khảo các bác sĩ chuyên khoa giấc ngủ. Xét nghiệm như xét nghiệm giấc ngủ qua đêm, kiểm tra oxy huyết, xét nghiệm thông khí và xem xét hồ sơ y tế có thể được thực hiện.
Việc điều trị hội chứng ngừng thở khi ngủ thường bao gồm:
1. Thay đổi lối sống: Giảm cân, tăng cường vận động và sử dụng đèn không ánh sáng vào buổi tối.
2. Vận dụng máy thở CPAP: Đây là phương pháp thông thường và hiệu quả nhất để duy trì lưu thông không khí trong quá trình ngủ. Máy CPAP đẩy không khí áp lực tăng vào cơ họng thông qua một mặt nạ đặt trên mũi hoặc miệng của người bệnh.
3. Phục hồi cơ họng: Trong một số trường hợp, phẫu thuật hoặc phương pháp điều trị như phẫu thuật laser có thể được sử dụng để mở rộng cơ họng và tăng lưu thông không khí.
4. Sử dụng thiết bị hỗ trợ hô hấp: Thiết bị như máy biPAP và ASV (Autoset) có thể được sử dụng để cung cấp áp suất hơi thoát ra khi thở ra và hỗ trợ hô hấp tự nhiên.
Việc xác định phương pháp điều trị phù hợp phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hội chứng ngừng thở khi ngủ và tình trạng sức khỏe của mỗi bệnh nhân.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của hội chứng ngừng thở khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 69 bệnh nhân đái tháo đường type 2 được đo đa ký giấc ngủ hoặc đa ký hô hấp tại Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Tỷ lệ mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 là 85,5%. BMI tăng ở nhóm đái tháo đường có hội chứng ngừng thở khi ngủ hơn là nhóm không có hội chứng ngừng thở khi ngủ. Điểm sàng lọc STOP-BANG và Epworth đều cao hơn ở nhóm bệnh nhân có hội chứng ngừng thở khi ngủ (HCNTKN) với p < 0,05. Không có sự khác biệt về HbA1c và đường máu lúc đói giữa 2 nhóm bệnh nhân. Nhóm bệnh nhân đái tháo đường type 2 mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ có chỉ số ngừng thở/giảm thở (AHI) trung bình là 33,8 ± 25 và chỉ số khử bão hòa oxy (ODI) là 39 ± 31,2, cao hơn so với nhóm không có ngừng thở với p< 0,05. Bên cạnh đó sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) còn thấy ở chỉ số SpO2 thấp nhất ở hai nhóm bệnh nhân nghiên cứu, chỉ số này cũng cao hơn ở nhóm có hội chứng ngừng thở khi ngủ. Kết luận: Hội chứng ngừng thở khi ngủ gặp nhiều ở bệnh nhân đái tháo đường type 2. STOP-BANG và Epworth có giá trị cao trong sàng hội chứng ngừng thở khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2.
#Hội chứng ngừng thở khi ngủ #Đái tháo đường type 2 #AHI #HbA1C #đường máu lúc đói #ODI #STOP-BANG #Epworth.
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC GIẤC NGỦ CỦA NGƯỜI BỆNH MẮC HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ DO TẮC NGHẼN KHI NGỦ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘIMục tiêu: Mô tả đặc điểm cấu trúc giấc ngủ của người bệnh mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2022-2023 và phân tích mối liên quan giữa thay đổi cấu trúc giấc ngủ và mức độ ngừng thở của nhóm đối tượng trên . Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trên 42 người bệnh đến khám và ghi đa ký giấc ngủ tại Bệnh viện. Kết quả và kết luận: Chỉ số giấc ngủ của đối tượng nghiên cứu: Tổng thời gian giấc ngủ trung bình 315,8 ±67,95 phút, thời gian tiềm giấc ngủ trung bình 10,326±2.31 với đa số người bệnh có thời gian tiềm giấc ngủ dưới 30 phút ( 90,5 %) , hiệu quả giấc ngủ trung bình 83,90±13,17 và tỉ lệ người bệnh có hiệu quả giấc ngủ lớn hơn 80% là 69 %. Tỷ lệ giai đoạn giấc ngủ của đối tượng tham gia nghiên cứu có thay đổi so với người bình thường, trong đó thấy sự kéo dài của tỷ lệ giai đoạn giấc ngủ N1 và N2 (giai đoạn giấc ngủ nông) và sự suy giảm của tỷ lệ giai đoạn giấc ngủ N3 và REM (giai đoạn ngủ sâu). Đặc điểm phân mảnh cấu giấc ngủ của đối tượng nghiên cứu. Chỉ số AHI trung bình: 44,72 ± 28,02 cơn/giờ trong đó tỷ lệ người bệnh ngừng thở do tắc nghẽn mức độ nặng (chỉ số AHI ≥ 30 cơn/giờ) chiếm ưu thế với 69 % Không có sự liên quan giữa thay đổi giấc ngủ N1 và N2 với mức độ ngừng thở của người bệnh.Có sự liên quan giữa thay đổi cấu trúc giấc ngủ của đối tượng tham gia và mức độ ngừng thở do tắc nghẽn theo chỉ số AHI. Sự giảm tỉ lệ trung bình giai đoạn giấc ngủ N3 và giai đoạn giấc ngủ REM và tăng chỉ số vi thức từ nhóm mức độ nhẹ đến nặng có ý nghĩa thông kê (p<0,05).
Từ khoá: Đa ký giấc ngủ, ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ.
#Từ khoá: Đa ký giấc ngủ #ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ
TÍNH TIN CẬY VÀ TÍNH GIÁ TRỊ CỦA BẢNG CÂU HỎI GIẤC NGỦ TRẺ EM PSQ PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆTMục tiêu: Xác định tính tin cậy và tính giá trị của bảng câu hỏi PSQ phiên bản tiếng Việt. Phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Tất cả trẻ em từ 3 – 17 tuổi, đến khám tại phòng khám hô hấp của Bệnh viện Đại học Y Dược, phòng khám đa khoa CHAC 1, thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11/2020 đến tháng 06/2021.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến cứu. Các đối tượng được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi PSQ và đo đa ký giấc ngủ type III để so sánh.
Kết quả: V-PSQ có tính giá trị nội dung I-CVI của tất cả câu hỏi đều đạt điểm 1.00 và điểm tác động của từng câu > 1.5. Tính tin cậy nội bộ: hệ số Cronbach’s alpha cho toàn bảng câu hỏi là 0,866, lĩnh vực ngáy 0,736, lĩnh vực giấc ngủ 0,682, lĩnh vực hành vi 0,782. Tính tin cậy lặp lại: hệ số tương quan Spearman 0,823 cho toàn bộ bảng câu hỏi (p < 0.01), Lĩnh vực ngáy 0,813, Lĩnh vực ngủ 0,875, Lĩnh vực hành vi 0,77. Chưa nhận thấy sự tương quan giữa bảng câu hỏi V-PSQ với chỉ số ngưng thở-giảm thở.
Kết luận: Bộ câu hỏi V-PSQ có tiềm năng trong việc tầm soát hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ ở trẻ em, tuy nhiên cần thêm nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn.
#Hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn #trẻ em #bảng câu hỏi tầm soát #đa ký giấc ngủ.
NHẬN XÉT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG NGƯNG THỞ KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NÃOMục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng của hội chứng ngưng thở khi ngủ ở bệnh nhân đột quỵ não. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 29 bệnh nhân đột quỵ mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 8/2022. Kết quả: Nhóm nam gồm 24 người (82.76%), tuổi trung bình bằng 68.33±9.67. Nhóm nữ gồm 5 người (17.24%), tuổi trung bình: 69.2±7.66. Không có sự khác biệt về trung bình tuổi giữa 2 giới (p=0.52). Trong số 29 bệnh nhân có 2 bệnh nhân nhân có cân nặng bình thường, 7 bệnh nhân thừa cân, 20 bệnh nhân béo phì. Chu vi vòng cổ ≥40 cm gặp ở 20 bệnh nhân. Tăng huyết áp là bệnh lí đồng mắc hay gặp nhất chiếm 82.76%. Trong 29 bệnh nhân, ngưng thở khi ngủ mức độ nhẹ là 10 bệnh nhân, trung bình là 7 bệnh nhân, nặng là 12 bệnh nhân. Ngủ ngáy là triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất ở nhóm nghiên cứu (26 bệnh nhân, chiếm 89.66%). Không có sự khác biệt về huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương giữa các mức độ ngưng thở khi ngủ. Trong 29 bệnh nhân có 19 bệnh nhân đột quỵ mức độ nhẹ, và 10 bệnh nhân đột quỵ mức độ vừa. Không có sự khác biệt về điểm NIHSS giữa các mức độ ngưng thở khi ngủ. Kết luận: Nên chú ý và sàng lọc những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ như có chỉ số BMI cao, đái tháo đường, tiền sử thường xuyên ngáy to-không đều và cơn ngừng thở được chứng kiến
#hội chứng ngưng thở khi ngủ #đột quỵ não.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ TẮC NGHẼN KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN TRÊN 65 TUỔIMục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ ở bệnh nhân trên 65 tuổi tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 65 tuổi chẩn đoán mắc hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ được điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai từ năm 9/2020 đến năm 7/2021. Kết quả. Triệu chứng ban đêm gặp nhiều nhất là ngáy to khi ngủ chiếm 92.5% và thức giấc nhiều lần trong đêm chiếm 75%. Có tới 97.6% số bệnh nhân có Mallampati độ 3-4 (n=42). Chỉ số ngưng giảm thở trung bình cả hai giới là 32.63 (n=45), trong đó 73.3% số bệnh nhân có AHI từ trung bình – nặng. Bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ tắc nghẽn có có điểm Epworth > 10 và triệu chứng đau đầu buổi sáng chỉ chiếm tỉ lệ 20% trong tổng số 40 bệnh nhân. Kết luận: Đối tượng người > 65 tuổi mắc OSA có biểu hiện buồn ngủ ngày, hay đau đầu, khó chịu vào buổi sáng thấp. Ngủ ngáy là triệu chứng ban đêm gặp nhiều nhất ở bệnh nhân trên 65 tuổi có ngừng thở tắc nghẽn với chỉ số AHI từ trung bình đền nặng. Do vậy, cần đặc biệt khuyến cáo đối với những người có biểu hiện ngủ ngáy nhằm phát hiện sớm hội chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn và điều trị kịp thời cho người bệnh
#hội chứng ngừng thở khi ngủ #tắc nghẽn
MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ MẮC HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ TẮC NGHẼN KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MÃN TÍNH NHẬP VIỆN TẠI TRUNG TÂM HÔ HẤP - BỆNH VIỆN BẠCH MAIMục tiêu: Hội chứng chồng lấp được hiểu là sự kết hợp giữa hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ (OSA) với bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) gây nên kết cục lâm sàng nặng nề hơn so với từng bệnh riêng lẻ. Mục đích nghiên cứu nhằm xác định một số yếu tố nguy cơ mắc OSA ở bệnh nhân COPD. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang ở 90 bệnh nhân COPD được đo chức năng hô hấp và đo đa kí hô hấp/đa kí giấc ngủ tại trung tâm Hô hấp, bệnh viện Bạch Mai. Yếu tố nguy cơ mắc OSA ở bệnh nhân COPD được xác định bằng phân tích hồi quy logistic đơn biến và đa biến. Kết quả: trong tổng số 90 bệnh nhân nghiên cứu có 56 bệnh nhân (62,2%) có hội chứng chồng lấp OSA và COPD. Không có sự khác biệt ở hai nhóm khi so sánh tuổi, giới, %FVC so với dự đoán, %FEV1 so với dự đoán, tần suất bị đái tháo đường (tất cả p>0,05). Điểm triệu chứng đánh giá COPD (CAT), mMRC, số đợt cấp trong năm vừa qua, số đợt cấp phải nhập viện trong năm qua, chỉ số khối cơ thể BMI, chu vi vòng cổ, chu vi vòng bụng, điểm Epworth, điểm STOP-BANG, áp lực động mạch phổi, tần suất tăng huyết áp ở nhóm chồng lấp OSA-COPD cao hơn hẳn so với nhóm COPD đơn thuần (p<0,05). STOP-BANG là yếu tố nguy cơ độc lập mắc OSA ở bệnh nhân COPD (p<0,05). Kết luận: bệnh nhân mắc hội chứng chồng lấp OSA-COPD có chất lượng cuộc sống kém hơn, kết cục lâm sàng tệ hơn so với bệnh nhân COPD đơn thuần. STOP-BANG là yếu tố nguy cơ độc lập dự báo mắc OSA ở bệnh nhân COPD.
#bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) #hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ (OSA) #yếu tố nguy cơ #đa kí hô hấp/đa kí giấc ngủ
ĐẶC ĐIỂM NỘI SOI ĐƯỜNG HÔ HẤP TRÊN TRONG GIẤC NGỦ TẠO RA BẰNG THUỐC TRONG HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ TẮC NGHẼN KHI NGỦMục tiêu: Mô tả đặc điểm đường hô hấp trên trong hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ. Phương pháp: Nghiên cứu in vivo, người đánh giá độc lập, thực hiện trên 12 bệnh nhân có mắc hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ mức độ nặng qua đo đa ký giấc ngủ. Tất cả mẫu nghiên cứu được nội soi đường hô hấp trên bằng ống nội soi mềm qua đường mũi trong giấc ngủ được tạo ra bằng thuốc gây mê. Đánh giá vị trí, cấu hình xẹp và mức độ xẹp theo phân loại VOTE của Kerizian và cộng sự năm 2011 [1]. Kết quả: Mô tả đặc điểm DISE ở 12 bệnh nhân ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ mức độ nặng (có chỉ số AHI 53.18±15.75/giờ, Chỉ số khối cơ thể 25.33±1.95 kg/m(2), tuổi 45.75±13.53 tuổi, tỷ lệ nữ:nam là 1:2) trước khi lựa chọn kế hoạch phẫu thuật. Qua phân tích có tới 7 bệnh nhân (58.3%) có xẹp nhiều hơn một tầng tại đường hô hấp trên và bệnh nhân xẹp đa tầng có chỉ số AHI và BMI cao hơn bệnh nhân xẹp đơn tầng có ý nghĩa thống kê với p<0.05 (56.54±16.67 so với 51.64±16.39 và 25.83±1.75 so với 24.98±2.14) và các vị trí xẹp nắp thanh thiệt hay xẹp họng miệng, màn hầu, đáy lưỡi có chỉ số AHI khác biệt và sự khác biệt về tuổi và chênh lệch giới giữa nhóm bệnh nhân xẹp đa tầng và đơn tầng không có ý nghĩa thống kê (p>0.05). Kết luận: Việc thực hiện DISE phát hiện tỷ lệ xẹp đa tầng tại đường hô hấp trên ở bệnh nhân ngừng thở tắc nghẽn mức độ nặng là cao. Do vậy, chúng tôi đề xuất DISE là công cụ lựa chọn đánh giá đường hô hấp trên cho những bệnh nhân ngừng thở tắc nghẽn mức độ nặng có chỉ định phẫu thuật.
#Nội soi đường thở khi ngủ #phẫu thuật hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ #đánh giá đường hô hấp trên khi ngủ #thuốc trong nội soi
Hiệu quả của phẫu thuật cắt dạ dày ống nội soi trong điều trị béo phì ở một xã hội phi phương Tây Dịch bởi AI Eating and Weight Disorders - Studies on Anorexia, Bulimia and Obesity - Tập 21 - Trang 695-699 - 2016
Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích kết quả trung hạn của phẫu thuật cắt dạ dày ống ở một nhóm bệnh nhân béo phì. Chúng tôi đã phân tích kết quả của 159 bệnh nhân trưởng thành đã thực hiện phẫu thuật cắt dạ dày ống bằng phương pháp nội soi từ tháng 1 năm 2011 đến tháng 1 năm 2015 tại trung tâm của chúng tôi. Dữ liệu thu thập bao gồm thông tin nhân khẩu học của bệnh nhân, sự hiện diện của các bệnh đi kèm, chỉ số khối cơ thể trước phẫu thuật, tỷ lệ phần trăm giảm cân thừa, sự cải thiện các bệnh đi kèm, tỷ lệ biến chứng và tỷ lệ tử vong tại bệnh viện. Chúng tôi đạt được tỷ lệ phần trăm giảm cân thừa là 75,1 ± 10,5 sau 24 tháng. Tỷ lệ thuyên giảm bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn sau phẫu thuật cắt dạ dày ống lần lượt là 84%, 63,9%, 75,8% và 93% trong các nghiên cứu khác nhau. Kết quả của chúng tôi đối với bệnh tiểu đường, tăng huyết áp và rối loạn lipid máu có thể so sánh với các dữ liệu khác về cải thiện các bệnh đi kèm sau phẫu thuật cắt dạ dày ống. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy sự cải thiện ở hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn trong nhóm bệnh nhân của mình ít hơn so với các báo cáo khác. Phẫu thuật cắt dạ dày ống là một kỹ thuật hiệu quả và bền vững trong điều trị béo phì và các bệnh đi kèm liên quan ở tất cả các nhóm chỉ số khối cơ thể trong quần thể béo phì. Để đạt được kết quả tốt hơn, cần có các chiến lược giáo dục và chứng nhận phù hợp.
#phẫu thuật cắt dạ dày ống #béo phì #bệnh đi kèm #tỷ lệ giảm cân thừa #hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn
Tác động của Uvulopalatopharyngoplasty và Phẫu thuật nâng cằm và xương hyoid lên quá trình nuốt ở bệnh nhân mắc Hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn Dịch bởi AI Otolaryngology - Head and Neck Surgery - Tập 120 - Trang 454-457 - 1999
MỤC TIÊUUvulopalatopharyngoplasty (UPPP) và phẫu thuật nâng cằm và xương hyoid (GHA) là các kỹ thuật phẫu thuật điều trị ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn. Các kỹ thuật này mở rộng đường thở ở vùng họng và dưới họng, giảm tình trạng sụp đổ tại những vị trí này. Nghiên cứu này đã đánh giá tác động của các thủ tục này lên quá trình nuốt.
PHƯƠNG PHÁPMười lăm bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật UPPP và GHA được đánh giá thông qua quá trình nuốt với barium sửa đổi để xác định các thay đổi sinh học trong quá trình nuốt. Cụ thể, đã xem xét tình trạng không đủ khả năng đóng họng, sự thay đổi trong chuyển động của lưỡi, sự nâng lên và đóng lại của thanh quản, chuyển động của nắp thanh quản và mở thực quản họng. Một bảng hỏi nhanh về nuốt đã được thực hiện để đánh giá các thay đổi chủ quan trong quá trình nuốt.
KẾT QUẢChín trong số 15 bệnh nhân có quá trình nuốt bất thường theo đánh giá khách quan, trong đó 5 bệnh nhân báo cáo quá trình nuốt bình thường theo cảm nhận chủ quan. Sáu trong số 15 bệnh nhân có quá trình nuốt bình thường theo đánh giá khách quan. Trong số này, 5 bệnh nhân báo cáo có sự thay đổi chủ quan.
KẾT LUẬNUPPP kết hợp với GHA có thể làm thay đổi các sự kiện sinh học trong quá trình nuốt. Tuy nhiên, có ít mối tương quan giữa các triệu chứng chủ quan và các phát hiện khách quan. Cần có các nghiên cứu thêm bao gồm các quá trình nuốt barium sửa đổi trước và sau phẫu thuật để xác định mối quan hệ nhân quả. (Otolaryngol Head Neck Surg 1999;120:454‐7.)
#Uvulopalatopharyngoplasty #Phẫu thuật nâng cằm và xương hyoid #Hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn #Quá trình nuốt #Sinh học nuốt
Đánh giá mức độ LECT2 và sclerostin trong huyết thanh ở bệnh nhân được theo dõi về hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn Dịch bởi AI Pleiades Publishing Ltd - - 2024
Bối cảnh: Hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn (OSA) được đặc trưng bởi tình trạng ngưng thở/hypopnea tái phát ở đường hô hấp trên và tình trạng thiếu oxy kèm theo các sự kiện hô hấp trong giấc ngủ. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm xác định mức độ LECT2 và sclerostin trong huyết thanh ở bệnh nhân OSA. Phương pháp: Các bệnh nhân đến khám với nghi ngờ OSA tại đơn vị điện não đồ của bệnh viện chúng tôi từ tháng 6 năm 2022 đến tháng 4 năm 2023 và đã hoàn thành bài kiểm tra điện não đồ được đưa vào nghiên cứu của chúng tôi. Nhóm 1: chỉ số ngưng thở-hypopnea (AHI) < 5/h nhóm đối chứng (n = 80), Nhóm 2: bệnh nhân OSA với AHI ≥ 5/h không có bệnh lý kèm theo (n = 80). Kết quả: Khi so sánh mức độ LECT2 và sclerostin giữa các nhóm, đã quan sát thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, cao hơn trong nhóm OSA (p < 0.001 cho cả hai). Khi so sánh các nhóm, chỉ thấy mức độ LECT2 và sclerostin cao hơn ở bệnh nhân OSA nặng so với bệnh nhân OSA nhẹ (p = 0.008, 0.02, tương ứng). Một tương quan dương được quan sát giữa mức LECT2 và AHI, chỉ số ngưng thở-hypopnea trong giai đoạn chuyển động mắt nhanh (REM-AHI), và các mức ODI (r = 0.55, p = 0.01, r = 0.42, p = 0.01, r = 0.61, p = 0.01). Một tương quan nghịch được quan sát giữa LECT2 và độ bão hòa oxy tối thiểu (r = –0.42, p = 0.01). Trong phân tích thực hiện với mức độ sclerostin, một tương quan dương (r = 0.42, p = 0.01, r = 0.28, p = 0.05, r = 0.53, p = 0.01) được quan sát với AHI, REM-AHI, và ODI, trong khi một tương quan nghịch được quan sát giữa độ bão hòa oxy tối thiểu. Tương quan được quan sát (r = –0.33, p = 0.01). Kết luận: Mức độ LECT2 và sclerostin trong huyết thanh ở bệnh nhân OSA có thể được sử dụng để xác định AHI và độ bão hòa oxy tối thiểu của các cá nhân cũng như trọng số của chúng trong bệnh nhân OSA.
#hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn #LECT2 #sclerostin #mức độ oxy trong máu #chỉ số ngưng thở-hypopnea #tương quan