Scholar Hub/Chủ đề/#hội chứng ngừng thở khi ngủ/
Hội chứng ngừng thở khi ngủ (còn được gọi là hội chứng ngừng thở giấc ngủ, hội chứng apnea giấc ngủ) là một tình trạng mà người bị nạn nhân bị ngừng thở tạm thờ...
Hội chứng ngừng thở khi ngủ (còn được gọi là hội chứng ngừng thở giấc ngủ, hội chứng apnea giấc ngủ) là một tình trạng mà người bị nạn nhân bị ngừng thở tạm thời trong khi đang ngủ. Đây là một vấn đề y tế nghiêm trọng và có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe khác.
Có hai loại hội chứng ngừng thở khi ngủ:
1. Hội chứng ngừng thở khi ngủ một phần (obstructive sleep apnea): Đây là tình trạng phổ biến nhất và thường xảy ra khi cơ họng bị tụt vào suốt quá trình ngủ, làm cản trở lưu thông không khí. Điều này có thể gây ra sự gián đoạn trong quá trình hô hấp và dẫn đến việc ngừng thở tạm thời.
2. Hội chứng ngừng thở khi ngủ trung tâm (central sleep apnea): Đây là dạng hiếm gặp, do sự mất cân bằng trong hệ thống điều khiển hô hấp của não. Trong trường hợp này, não không phát ra tín hiệu để cơ họng hoạt động một cách đồng bộ, dẫn đến việc ngừng thở.
Người mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ thường có những triệu chứng như việc thức giấc liên tục trong ban đêm, mệt mỏi và buồn ngủ trong ngày, chóng mặt, rối loạn giấc ngủ và giảm hiệu suất làm việc. Nếu không được điều trị, hội chứng này có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim, mất ngủ và nguy cơ cao cho các bệnh tim mạch và tai biến mạch máu não.
Việc điều trị hội chứng ngừng thở khi ngủ thường bao gồm thay đổi lối sống (giảm cân, ngừng hút thuốc, tránh uống rượu trước khi đi ngủ), sử dụng máy thở (dụng cụ Continuous Positive Airway Pressure - CPAP) hoặc các phương pháp phục hồi cơ họng.
Hội chứng ngừng thở khi ngủ là một tình trạng mà người bị nạn nhân bị ngừng thở tạm thời trong khi đang ngủ. Thông thường, khi người ta ngủ, cơ họng tự động co lại và lõm vào một chút để ngăn không khí thoát ra. Tuy nhiên, ở những người bị hội chứng ngừng thở khi ngủ, cơ họng có thể tụt xuống quá mức và gây cản trở lưu thông không khí. Điều này dẫn đến việc cung cấp ít oxi vào máu, gây ra sự gián đoạn trong quá trình hô hấp và ngừng thở tạm thời.
Các nguyên nhân gây ra hội chứng ngừng thở khi ngủ bao gồm:
1. Xuất phát từ cơ họng: Cấu trúc cơ họng không ổn định hoặc cơ họng quá nhỏ.
2. Tăng cân: Tích mỡ và mô xơ trong cơ họng có thể gây áp lực lên lỗ thoáng của cơ họng, làm giảm lưu thông không khí.
3. Suy giảm chức năng cơ họng: Các bệnh như bệnh Parkinson, bẹnh tuổi già, hoặc bệnh liên quan đến hệ thần kinh có thể làm giảm khả năng kiểm soát hoạt động của cơ họng.
4. Dấu hiệu đường hô hấp không ổn định: Sự mất cân bằng trong việc điều khiển giữa việc hít và thở trong quá trình ngủ.
Một số triệu chứng thường gặp của hội chứng ngừng thở khi ngủ bao gồm:
1. Ngừng thở tạm thời: Có thể là trong vài giây đến vài phút.
2. Tiếng ngáp: Do việc giảm lưu thông không khí qua cơ họng.
3. Thức giấc liên tục trong ban đêm: Do việc ngừng thở tạm thời gây ra.
4. Mệt mỏi và buồn ngủ trong ngày: Do việc không có giấc ngủ tốt trong đêm.
5. Chóng mặt và rối loạn giấc ngủ: Do ít oxi và tác động của việc thức giấc liên tục.
6. Giảm hiệu suất làm việc: Do việc mất ngủ và khó tập trung.
Để chẩn đoán hội chứng ngừng thở khi ngủ, người bệnh thường cần tham khảo các bác sĩ chuyên khoa giấc ngủ. Xét nghiệm như xét nghiệm giấc ngủ qua đêm, kiểm tra oxy huyết, xét nghiệm thông khí và xem xét hồ sơ y tế có thể được thực hiện.
Việc điều trị hội chứng ngừng thở khi ngủ thường bao gồm:
1. Thay đổi lối sống: Giảm cân, tăng cường vận động và sử dụng đèn không ánh sáng vào buổi tối.
2. Vận dụng máy thở CPAP: Đây là phương pháp thông thường và hiệu quả nhất để duy trì lưu thông không khí trong quá trình ngủ. Máy CPAP đẩy không khí áp lực tăng vào cơ họng thông qua một mặt nạ đặt trên mũi hoặc miệng của người bệnh.
3. Phục hồi cơ họng: Trong một số trường hợp, phẫu thuật hoặc phương pháp điều trị như phẫu thuật laser có thể được sử dụng để mở rộng cơ họng và tăng lưu thông không khí.
4. Sử dụng thiết bị hỗ trợ hô hấp: Thiết bị như máy biPAP và ASV (Autoset) có thể được sử dụng để cung cấp áp suất hơi thoát ra khi thở ra và hỗ trợ hô hấp tự nhiên.
Việc xác định phương pháp điều trị phù hợp phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hội chứng ngừng thở khi ngủ và tình trạng sức khỏe của mỗi bệnh nhân.
Sửa chữa phẫu thuật các bất thường giải phẫu trong hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn: Uvulopalatopharyngoplasty Dịch bởi AI Otolaryngology - Head and Neck Surgery - Tập 89 Số 6 - Trang 923-934 - 1981
Ngủ ban ngày quá mức và ngáy to là những triệu chứng chính của ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn, thường dẫn đến các biến chứng y tế nghiêm trọng nếu không được nhận diện và điều trị kịp thời. Tạo hình khí quản đã là phương pháp điều trị hiệu quả duy nhất trong hầu hết các trường hợp ở người lớn. Bài báo này báo cáo về một phương pháp phẫu thuật mới để điều trị ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn bằng uvulopalatopharyngoplasty nhằm mở rộng không gian khí tiềm năng ở hoặc họng. Mười hai bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật này. Trong chín trường hợp, triệu chứng đã được giảm nhẹ và trong tám trường hợp, có sự cải thiện khách quan về hô hấp ban đêm và mô hình giấc ngủ, được chứng minh bằng polysomnography.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của hội chứng ngừng thở khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 69 bệnh nhân đái tháo đường type 2 được đo đa ký giấc ngủ hoặc đa ký hô hấp tại Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Tỷ lệ mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 là 85,5%. BMI tăng ở nhóm đái tháo đường có hội chứng ngừng thở khi ngủ hơn là nhóm không có hội chứng ngừng thở khi ngủ. Điểm sàng lọc STOP-BANG và Epworth đều cao hơn ở nhóm bệnh nhân có hội chứng ngừng thở khi ngủ (HCNTKN) với p < 0,05. Không có sự khác biệt về HbA1c và đường máu lúc đói giữa 2 nhóm bệnh nhân. Nhóm bệnh nhân đái tháo đường type 2 mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ có chỉ số ngừng thở/giảm thở (AHI) trung bình là 33,8 ± 25 và chỉ số khử bão hòa oxy (ODI) là 39 ± 31,2, cao hơn so với nhóm không có ngừng thở với p< 0,05. Bên cạnh đó sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) còn thấy ở chỉ số SpO2 thấp nhất ở hai nhóm bệnh nhân nghiên cứu, chỉ số này cũng cao hơn ở nhóm có hội chứng ngừng thở khi ngủ. Kết luận: Hội chứng ngừng thở khi ngủ gặp nhiều ở bệnh nhân đái tháo đường type 2. STOP-BANG và Epworth có giá trị cao trong sàng hội chứng ngừng thở khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2.
#Hội chứng ngừng thở khi ngủ #Đái tháo đường type 2 #AHI #HbA1C #đường máu lúc đói #ODI #STOP-BANG #Epworth.
MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ MẮC HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ TẮC NGHẼN KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MÃN TÍNH NHẬP VIỆN TẠI TRUNG TÂM HÔ HẤP - BỆNH VIỆN BẠCH MAIMục tiêu: Hội chứng chồng lấp được hiểu là sự kết hợp giữa hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ (OSA) với bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) gây nên kết cục lâm sàng nặng nề hơn so với từng bệnh riêng lẻ. Mục đích nghiên cứu nhằm xác định một số yếu tố nguy cơ mắc OSA ở bệnh nhân COPD. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang ở 90 bệnh nhân COPD được đo chức năng hô hấp và đo đa kí hô hấp/đa kí giấc ngủ tại trung tâm Hô hấp, bệnh viện Bạch Mai. Yếu tố nguy cơ mắc OSA ở bệnh nhân COPD được xác định bằng phân tích hồi quy logistic đơn biến và đa biến. Kết quả: trong tổng số 90 bệnh nhân nghiên cứu có 56 bệnh nhân (62,2%) có hội chứng chồng lấp OSA và COPD. Không có sự khác biệt ở hai nhóm khi so sánh tuổi, giới, %FVC so với dự đoán, %FEV1 so với dự đoán, tần suất bị đái tháo đường (tất cả p>0,05). Điểm triệu chứng đánh giá COPD (CAT), mMRC, số đợt cấp trong năm vừa qua, số đợt cấp phải nhập viện trong năm qua, chỉ số khối cơ thể BMI, chu vi vòng cổ, chu vi vòng bụng, điểm Epworth, điểm STOP-BANG, áp lực động mạch phổi, tần suất tăng huyết áp ở nhóm chồng lấp OSA-COPD cao hơn hẳn so với nhóm COPD đơn thuần (p<0,05). STOP-BANG là yếu tố nguy cơ độc lập mắc OSA ở bệnh nhân COPD (p<0,05). Kết luận: bệnh nhân mắc hội chứng chồng lấp OSA-COPD có chất lượng cuộc sống kém hơn, kết cục lâm sàng tệ hơn so với bệnh nhân COPD đơn thuần. STOP-BANG là yếu tố nguy cơ độc lập dự báo mắc OSA ở bệnh nhân COPD.
#bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) #hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ (OSA) #yếu tố nguy cơ #đa kí hô hấp/đa kí giấc ngủ
NHẬN XÉT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG NGƯNG THỞ KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NÃOMục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng của hội chứng ngưng thở khi ngủ ở bệnh nhân đột quỵ não. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 29 bệnh nhân đột quỵ mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 8/2022. Kết quả: Nhóm nam gồm 24 người (82.76%), tuổi trung bình bằng 68.33±9.67. Nhóm nữ gồm 5 người (17.24%), tuổi trung bình: 69.2±7.66. Không có sự khác biệt về trung bình tuổi giữa 2 giới (p=0.52). Trong số 29 bệnh nhân có 2 bệnh nhân nhân có cân nặng bình thường, 7 bệnh nhân thừa cân, 20 bệnh nhân béo phì. Chu vi vòng cổ ≥40 cm gặp ở 20 bệnh nhân. Tăng huyết áp là bệnh lí đồng mắc hay gặp nhất chiếm 82.76%. Trong 29 bệnh nhân, ngưng thở khi ngủ mức độ nhẹ là 10 bệnh nhân, trung bình là 7 bệnh nhân, nặng là 12 bệnh nhân. Ngủ ngáy là triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất ở nhóm nghiên cứu (26 bệnh nhân, chiếm 89.66%). Không có sự khác biệt về huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương giữa các mức độ ngưng thở khi ngủ. Trong 29 bệnh nhân có 19 bệnh nhân đột quỵ mức độ nhẹ, và 10 bệnh nhân đột quỵ mức độ vừa. Không có sự khác biệt về điểm NIHSS giữa các mức độ ngưng thở khi ngủ. Kết luận: Nên chú ý và sàng lọc những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ như có chỉ số BMI cao, đái tháo đường, tiền sử thường xuyên ngáy to-không đều và cơn ngừng thở được chứng kiến
#hội chứng ngưng thở khi ngủ #đột quỵ não.
ĐẶC ĐIỂM NỘI SOI ĐƯỜNG HÔ HẤP TRÊN TRONG GIẤC NGỦ TẠO RA BẰNG THUỐC TRONG HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ TẮC NGHẼN KHI NGỦMục tiêu: Mô tả đặc điểm đường hô hấp trên trong hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ. Phương pháp: Nghiên cứu in vivo, người đánh giá độc lập, thực hiện trên 12 bệnh nhân có mắc hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ mức độ nặng qua đo đa ký giấc ngủ. Tất cả mẫu nghiên cứu được nội soi đường hô hấp trên bằng ống nội soi mềm qua đường mũi trong giấc ngủ được tạo ra bằng thuốc gây mê. Đánh giá vị trí, cấu hình xẹp và mức độ xẹp theo phân loại VOTE của Kerizian và cộng sự năm 2011 [1]. Kết quả: Mô tả đặc điểm DISE ở 12 bệnh nhân ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ mức độ nặng (có chỉ số AHI 53.18±15.75/giờ, Chỉ số khối cơ thể 25.33±1.95 kg/m(2), tuổi 45.75±13.53 tuổi, tỷ lệ nữ:nam là 1:2) trước khi lựa chọn kế hoạch phẫu thuật. Qua phân tích có tới 7 bệnh nhân (58.3%) có xẹp nhiều hơn một tầng tại đường hô hấp trên và bệnh nhân xẹp đa tầng có chỉ số AHI và BMI cao hơn bệnh nhân xẹp đơn tầng có ý nghĩa thống kê với p<0.05 (56.54±16.67 so với 51.64±16.39 và 25.83±1.75 so với 24.98±2.14) và các vị trí xẹp nắp thanh thiệt hay xẹp họng miệng, màn hầu, đáy lưỡi có chỉ số AHI khác biệt và sự khác biệt về tuổi và chênh lệch giới giữa nhóm bệnh nhân xẹp đa tầng và đơn tầng không có ý nghĩa thống kê (p>0.05). Kết luận: Việc thực hiện DISE phát hiện tỷ lệ xẹp đa tầng tại đường hô hấp trên ở bệnh nhân ngừng thở tắc nghẽn mức độ nặng là cao. Do vậy, chúng tôi đề xuất DISE là công cụ lựa chọn đánh giá đường hô hấp trên cho những bệnh nhân ngừng thở tắc nghẽn mức độ nặng có chỉ định phẫu thuật.
#Nội soi đường thở khi ngủ #phẫu thuật hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ #đánh giá đường hô hấp trên khi ngủ #thuốc trong nội soi
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ TẮC NGHẼN KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN TRÊN 65 TUỔIMục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ ở bệnh nhân trên 65 tuổi tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 65 tuổi chẩn đoán mắc hội chứng ngừng thở tắc nghẽn khi ngủ được điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai từ năm 9/2020 đến năm 7/2021. Kết quả. Triệu chứng ban đêm gặp nhiều nhất là ngáy to khi ngủ chiếm 92.5% và thức giấc nhiều lần trong đêm chiếm 75%. Có tới 97.6% số bệnh nhân có Mallampati độ 3-4 (n=42). Chỉ số ngưng giảm thở trung bình cả hai giới là 32.63 (n=45), trong đó 73.3% số bệnh nhân có AHI từ trung bình – nặng. Bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ tắc nghẽn có có điểm Epworth > 10 và triệu chứng đau đầu buổi sáng chỉ chiếm tỉ lệ 20% trong tổng số 40 bệnh nhân. Kết luận: Đối tượng người > 65 tuổi mắc OSA có biểu hiện buồn ngủ ngày, hay đau đầu, khó chịu vào buổi sáng thấp. Ngủ ngáy là triệu chứng ban đêm gặp nhiều nhất ở bệnh nhân trên 65 tuổi có ngừng thở tắc nghẽn với chỉ số AHI từ trung bình đền nặng. Do vậy, cần đặc biệt khuyến cáo đối với những người có biểu hiện ngủ ngáy nhằm phát hiện sớm hội chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn và điều trị kịp thời cho người bệnh
#hội chứng ngừng thở khi ngủ #tắc nghẽn
TÍNH TIN CẬY VÀ TÍNH GIÁ TRỊ CỦA BẢNG CÂU HỎI GIẤC NGỦ TRẺ EM PSQ PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆTMục tiêu: Xác định tính tin cậy và tính giá trị của bảng câu hỏi PSQ phiên bản tiếng Việt. Phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Tất cả trẻ em từ 3 – 17 tuổi, đến khám tại phòng khám hô hấp của Bệnh viện Đại học Y Dược, phòng khám đa khoa CHAC 1, thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11/2020 đến tháng 06/2021.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến cứu. Các đối tượng được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi PSQ và đo đa ký giấc ngủ type III để so sánh.
Kết quả: V-PSQ có tính giá trị nội dung I-CVI của tất cả câu hỏi đều đạt điểm 1.00 và điểm tác động của từng câu > 1.5. Tính tin cậy nội bộ: hệ số Cronbach’s alpha cho toàn bảng câu hỏi là 0,866, lĩnh vực ngáy 0,736, lĩnh vực giấc ngủ 0,682, lĩnh vực hành vi 0,782. Tính tin cậy lặp lại: hệ số tương quan Spearman 0,823 cho toàn bộ bảng câu hỏi (p < 0.01), Lĩnh vực ngáy 0,813, Lĩnh vực ngủ 0,875, Lĩnh vực hành vi 0,77. Chưa nhận thấy sự tương quan giữa bảng câu hỏi V-PSQ với chỉ số ngưng thở-giảm thở.
Kết luận: Bộ câu hỏi V-PSQ có tiềm năng trong việc tầm soát hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ ở trẻ em, tuy nhiên cần thêm nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn.
#Hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn #trẻ em #bảng câu hỏi tầm soát #đa ký giấc ngủ.
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC GIẤC NGỦ CỦA NGƯỜI BỆNH MẮC HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ DO TẮC NGHẼN KHI NGỦ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘIMục tiêu: Mô tả đặc điểm cấu trúc giấc ngủ của người bệnh mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2022-2023 và phân tích mối liên quan giữa thay đổi cấu trúc giấc ngủ và mức độ ngừng thở của nhóm đối tượng trên . Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trên 42 người bệnh đến khám và ghi đa ký giấc ngủ tại Bệnh viện. Kết quả và kết luận: Chỉ số giấc ngủ của đối tượng nghiên cứu: Tổng thời gian giấc ngủ trung bình 315,8 ±67,95 phút, thời gian tiềm giấc ngủ trung bình 10,326±2.31 với đa số người bệnh có thời gian tiềm giấc ngủ dưới 30 phút ( 90,5 %) , hiệu quả giấc ngủ trung bình 83,90±13,17 và tỉ lệ người bệnh có hiệu quả giấc ngủ lớn hơn 80% là 69 %. Tỷ lệ giai đoạn giấc ngủ của đối tượng tham gia nghiên cứu có thay đổi so với người bình thường, trong đó thấy sự kéo dài của tỷ lệ giai đoạn giấc ngủ N1 và N2 (giai đoạn giấc ngủ nông) và sự suy giảm của tỷ lệ giai đoạn giấc ngủ N3 và REM (giai đoạn ngủ sâu). Đặc điểm phân mảnh cấu giấc ngủ của đối tượng nghiên cứu. Chỉ số AHI trung bình: 44,72 ± 28,02 cơn/giờ trong đó tỷ lệ người bệnh ngừng thở do tắc nghẽn mức độ nặng (chỉ số AHI ≥ 30 cơn/giờ) chiếm ưu thế với 69 % Không có sự liên quan giữa thay đổi giấc ngủ N1 và N2 với mức độ ngừng thở của người bệnh.Có sự liên quan giữa thay đổi cấu trúc giấc ngủ của đối tượng tham gia và mức độ ngừng thở do tắc nghẽn theo chỉ số AHI. Sự giảm tỉ lệ trung bình giai đoạn giấc ngủ N3 và giai đoạn giấc ngủ REM và tăng chỉ số vi thức từ nhóm mức độ nhẹ đến nặng có ý nghĩa thông kê (p<0,05).
Từ khoá: Đa ký giấc ngủ, ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ.
#Từ khoá: Đa ký giấc ngủ #ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ
Mối quan hệ giữa các phát hiện của tiềm năng cơ học bị kích thích vestibular và độ nặng của hội chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn Dịch bởi AI Archives of oto-rhino-laryngology - Tập 277 - Trang 37-46 - 2019
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giá ảnh hưởng của tình trạng thiếu oxy mãn tính trong Hội chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSAS) lên các đường dẫn truyền ở não thân bằng cách sử dụng bài kiểm tra Tiềm năng cơ học bị kích thích vestibular (VEMP) và điều tra sự hiện diện của các dấu hiệu mới có khả năng tương quan với mức độ nghiêm trọng của bệnh. Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp tiềm hình và mù đôi. Tổng cộng có 60 bệnh nhân (120 tai) được chẩn đoán mắc OSAS nhẹ, trung bình và nặng được đưa vào nghiên cứu, với mỗi nhóm có 20 bệnh nhân. Hai mươi cá nhân tình nguyện khỏe mạnh (40 tai) không mắc OSAS được đưa vào nghiên cứu. Các phép đo VEMP được thực hiện trên 60 bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu (120 tai) và 20 kiểm soát khỏe mạnh (40 tai). Các nhóm đã được so sánh dựa trên các biến như tỷ lệ thu thập sóng oVEMP và cVEMP, khoảng cách giữa các sóng, độ trễ và biên độ sóng. Các giá trị p < 0.05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Kết quả từ bài kiểm tra cVEMP cho thấy tỷ lệ thu thập sóng trong các nhóm OSAS trung bình và nặng thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng và nhóm OSAS nhẹ (p = 0.008). Không có sự khác biệt giữa nhóm đối chứng và nhóm OSAS nhẹ về tỷ lệ thu được sóng (p > 0.05). Trong các nhóm OSAS trung bình và nặng, giá trị biên độ P1N1 và N1P2 được phát hiện là thấp hơn đáng kể so với nhóm OSAS nhẹ (p = 0.007 và p = 0.017, tương ứng). Trong bài kiểm tra oVEMP, không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm OSAS nhẹ và nhóm đối chứng về tỷ lệ sóng thu được (p > 0.05); tuy nhiên, tỷ lệ thu thập sóng trong các nhóm OSAS trung bình và nặng thấp hơn đáng kể so với nhóm OSAS nhẹ (p = 0.041). Có sự tương quan nghịch giữa khoảng cách N1P2 và giá trị biên độ P1N1 với AHI trong phân tích hồi quy đơn giản và hồi quy đa biến (p = 0.012 và p = 0.021; p = 0.009 và p = 0.040, tương ứng). Các tác động tiêu cực của tình trạng thiếu oxy mãn tính liên quan đến OSAS lên não thân và hệ thống tiền đình có thể được chứng minh bằng các bài kiểm tra VEMP. Đặc biệt, khả năng không thu được sóng là phát hiện quan trọng nhất cho thấy tình huống này. Chúng tôi cũng cho rằng các dấu hiệu khoảng cách N1P2 và biên độ P1N1 có thể được sử dụng để phát hiện tác động tiêu cực dưới lâm sàng của việc thiếu oxy mãn tính lên các nhân tiền đình trong não thân.
Hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn Dịch bởi AI CardioVasc - Tập 12 - Trang 48-50 - 2012
Dữ liệu dịch tễ học và sinh lý bệnh trong những năm gần đây đã chỉ ra rằng hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với sự phát triển của tăng huyết áp động mạch. Tỷ lệ mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn đặc biệt cao ở những bệnh nhân có tình trạng tăng huyết áp động mạch dường như kháng trị với điều trị. Dưới sự điều trị thích hợp, đặc biệt là điều trị bằng thiết bị áp lực dương liên tục trong đường thở (CPAP), không chỉ giúp bình thường hóa rối loạn hô hấp trong khi ngủ mà còn giúp giảm huyết áp một cách đáng kể.
#hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn #tăng huyết áp #điều trị CPAP